tung kinh nhan qua 3 doi
Tuy nhiên, khi hiệp 1 diễn ra được hơn 1/2 thời gian, võ sĩ người Ấn Độ đã áp sát thành công và tung ra một cú đấm móc cực mạnh khiến đối thủ ngã ngửa xuống sàn. Cú đấm ấn định kết quả trận đấu. Sau đó, Kantharaj Shankar nhanh chóng lao tới bồi thêm 3 cú đấm
3.Định giá theo chiến lược Marketing. Chia sẻ với bạn một chút về chiến lược Marketing Mix được áp dụng rất nhiều hiện nay, gồm 4P: Product (Sản phẩm), Place (Kênh phân phối), Promotion (Quảng cáo), Price - (Giá). Như vậy GIÁ là 1 trong 4 yếu tố quan trọng trong chiến lược
Kết quả bóng đá Real Madrid 3-1 Barca vòng 9 La Liga 2022/2023 diễn ra lúc 21h15 ngày 16/10/2022 theo giờ Việt Benzema đá bồi tung lưới Barca sau khi thủ môn Ter Stegen cản phá cú sút của Vinicius. Real Madrid thắng thuyết phục trong trận siêu kinh điển và độc chiếm ngôi đầu bảng
Vay Nhanh Fast Money. Thuở xưa, có người đến hỏi một vị Thiền sư "Bậc tu hành đã ngộ lý Chân Không, có lạc vào vòng nhân quả đặng?". Thiền sư đáp "Bậc đại tu hành chẳng lạc vào vòng nhân quả". Ác giả ác báo và chuyện vợ chồng gian thần Tần Cối bị phỉ nhổ muôn đời Vì câu trả lời này mà khiến cho Thiền sư phải đọa làm kiếp chồn năm trăm năm, sau gặp ngài Bá Trượng mới được giải thoát. Cũng do câu chuyện trên đây, nên các vị cổ đức khuyên người học Phật, trước tiên phải duyệt các kinh nói về nhân qủa tội phước, chú trọng phần giới hạnh, cùng hiểu biết sự luân hồi trong ba cõi sáu đường, sau mới nghiên cứu qua kinh cao. Nếu trái thứ tự, bước đầu tiên đọc những kinh như Kim Cang, Pháp Bảo Đàn...nếu không phải là người có nhiều căn lành, tất dễ sinh lòng khinh mạn và lạc vào lối chấp không? Thật ra, nhân qủa không phải là chuyện thấp nhỏ, vì từ chúng sinh đọa tam đồ cho đến chư Phật thành Chính Giác đều không ngoài nhân quả. Do sự kiện trên bút giả mới phiên dịch quyển kinh nàỵ Kinh Hoa Nghêm nói "Lòng tin là bước đầu của đạo, và mẹ của tất cả công đức". Vì kinh nhân quả nói tóm tắt không mấy trang nên bút giả lại phụ thêm một ít câu chuyện tạm gọi là "Nhân quả luân hồi tạp lục". Về việc luân hồi nhân quả ở Việt Nam ta cũng có nhiều, tiếc vì không ai ghi chép thành sách, nên tản mác đi. Vì thế, bút giả đành tìm dịch các câu chuyện bên Trung Hoa, và những việc này đều có thật. Cái thông bệnh của người tu Phật, là hay luận huyền nói diệu, mà việc thường nhỏ lại ít khi làm được. Nhớ lại hồi xưa sư cụ Khánh Hòa còn tại thế, có một Phật tử hỏi về đạo lý "vô thỉ vô chung". Sư Cụ mỉm cười đáp "Hỏi chi xa vời vậy? Gắng ăn chay và niệm Phật cho đều đều là tốt lắm rồi!", Đại để, người đã lăn lội trong nhiều giáo điển, lại không muốn nói diệu huyền mà chỉ chú trọng đến sự thật hành thông thường, là như thế. Kinh Hoa Nghiêm nói "Lòng tin là bước đầu của đạo, và mẹ của tất cả công đức". Mong những vị hữu duyên, khi xem đến quyển sách này, bắt đầu tu niệm tin có linh hồn ma quỷ, đến tin có tội phước báo ứng, việc chuyển kiếp luân hồi, cũng sự linh hiển của Phật Pháp. Do đó, lần lượt tiếp tục xem những kinh cao hơn. Chừng ấy, lẽ không không sắc sắc, đường thị thị phi phi, sẽ hỏi Phật đà mà tỉnh ngộ. - Một hôm, Tôn giả A Nan Đà, ở trên hội Linh Sơn cùng với một ngàn hai trăm năm mươi đại Tỳ Kheo câu hội. Khi ấy A Nan Đà Tôn giả, chắp tay đảnh lễ Phật, nhiễu quanh ba vòng, rồi quỳ xuống thưa thỉnh đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn rằng - Bạch Thế Tôn! Đến thời mạt pháp, tất cả chúng sinh ở cõi Nam Diêm Phù Đề, nhiều kẻ sinh niệm chẳng lành, không kính Tam Bảo, không trọng cha mẹ, không có tam cang. Năm giềng rối loạn, nghèo khó, thấp hèn, sáu căn chẳng đủ, trọn ngày sát sinh hại mạng cho đến nghèo giàu sang hèn không đồng nhau. Do nhân duyên qủa báo gì khiến nên như thế? Tin và sống theo định luật nhân quả Cho nên tất cả chúng sinh, trước phải hiếu kính cha mẹ, kế đó phải tin trọng ngôi Tam Bảo, thứ ba nên bỏ giới sát mà phóng sinh, và thứ tư cần ăn chay bố thí mới có thể gieo giống ruộng phước về sau. Cúi xin đức Thế Tôn từ bi, vì chúng con giải thích mọi sự việc. Phật bảo A Nan cùng các đại đệ tử Lành thay! Lành thay! Các ông hãy lắng nghe! Ta sẽ vì các ông mà giải thích rành rẽ". Tất cả nam nữ ở thế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nhân duyên từ đời trước mà cảm qủa báo. Cho nên tất cả chúng sinh, trước phải hiếu kính cha mẹ, kế đó phải tin trọng ngôi Tam Bảo, thứ ba nên bỏ giới sát mà phóng sinh, và thứ tư cần ăn chay bố thí mới có thể gieo giống ruộng phước về sau. Tạo nhân duyên gì để hạt giống nghiệp xấu không trổ quả? Phật liền nói bài kệ nhân quả rằng Giàu sang đều bởi mạng Đời trước có tu nhân Ai thọ trì kinh này, Đời đời hưởng phước lộc. Thiện nam, tín nữ nghe ta nói Suy nhớ kinh Nhân Quả ba đời Nhân quả ba đời việc chẳng nhỏ, Phật nói lời Phật chớ chê khinh. 1. Đời nay làm quan do nhân gì? Kiếp trước vàng ròng thếp tượng Phật Đời nay hưởng phước bởi nhân xưa Đai vàng, áo tía, cầu nơi Phật. Vàng trang nghiêm Phật, trang nghiêm mình. Làm đẹp Như Lai, đẹp từ thân. Đừng bảo làm quan là chuyện dễ, Không tu phước ấy đến từ đâu? 2. Cưỡi ngựa, ngồi kiệu do nhân gì? Kiếp trước làm cầu, bồi đắp lộ. 3. Do nhân duyên gì mặc gấm vóc? Đời trước thí áo giúp Tăng Ni. 4. Có ăn, có mặc do nhân gì? Xưa giúp kẻ nghèo cho ăn uống. 5. Ăn mặc thiếu thốn bởi nhân chi? Kiếp trước một nửa không xả thí. 6. Lầu cao nhà lớn do nhân gì? Xưa lên chùa am cúng thí gạo. 7. Phước lộc đầy đủ cho nhân gì? Xưa lập chùa am cất nhà mát 1 8. Tướng mạo xinh đẹp do nhân gì? Đời trước hoa tươi cúng dường Phật. 9. Thông minh trí tuệ do nhân gì? Kiếp trước ăn chay, thường niệm Phật. 10. Người thấy vui mừng do nhân gì? Xưa kết duyên lành cùng đại chúng. 11. Chồng vợ bền lâu do nhân gì? Đời trước tràng phan nghiêm cúng Phật. 12. Cha mẹ song toàn do nhân gì? Đời trước kính trọng người cô độc. 13. Không cha mất mẹ do nhân gì? Kiếp trước là người đánh bẫy chim. 14. Con cháu đông nhiều do nhân gì? Đời trước mở lồng thả chim thú. 15. Nuôi con không được do nhân gì? Xưa sinh con gái dìm cho chết? 2 16. Đời nay không con do nhân gì? Kiếp trước bẻ gãy hại trăm hoa. 17. Đời nay sống lâu do nhân gì? Kiếp trước mua vật phóng sinh nhiều. 18. Đời nay mạng yểu do nhân gì? Kiếp trước xẻ thịt giết chúng sinh. 19. Đời nay không vợ do nhân gì? Kiếp trước tham mưu gian vợ người. 20. Đời nay ở góa do nhân gì? Kiếp trước buông lung khinh rẻ chồng. 21. Làm thân tôi đòi do nhân gì? Kiếp trước quên ơn cùng phụ nghĩa. 22. Đời nay mắt sáng do nhân gì? Kiếp trước cúng dầu đốt đèn Phật. 23. Đời nay đui mù do nhân gì? Kiếp trước chỉ đường chẳng phân minh. 24. Môi miệng sứt thiếu do nhân gì? Kiếp trước thổi tắt đèn cúng Phật. 25. Đời nay câm điếc do nhân gì? Xưa từng ác khẩu mắng cha mẹ. 26. Đời nay lưng gù cho nhân gì? Kiếp trước chê cười người lễ Phật. 27. Tay bị cong quẹo do nhân gì? Đời trước đều là người tạo nghiệp. 28. Chân bị co rút do nhân gì? Kiếp trước ngăn đường đánh cướp người. 29. Làm thân trâu ngựa do nhân gì? Xưa thiếu nợ người không chịu trả. 30. Đọa làm heo chó do nhân gì? Kiếp trước lừa gạt phỉnh hại người. 31. Đời nay nhiều bệnh do nhân gì? Xưa đem rượu thịt bày cúng Phật. 32. Đời nay không bệnh do nhân gì? Xưa thí thuốc men cứu bệnh nhân. 33. Hằng bị lao tù do nhân gì? Kiếp trước làm ác chẳng nhượng người. 34. Đời nay chết đói do nhân gì? Kiếp trước thường lấp hang rắn chuột 35. Bị thuốc độc chết do nhân gì? Kiếp trước đăng lưới giết hại cá. 36. Nổi trôi cơ khổ do nhân gì? Ác tâm lấn hiếp mưu hại người. 37. Đời nay lùn bé do nhân gì? Kiếp trước xem kinh để dưới đất. 3 38. Nay thường thổ huyết do nhân gì? Xưa ăn thịt rồi đi tụng kinh. 4 39. Đời nay ngu điếc do nhân gì? Kiếp trước tụng kinh chẳng lắng nghe. 40. Ghẻ lác phong điên do nhân gì? Xông hơi thịt cá trước bàn Phật. 41. Thân có mùi hôi do nhân gì? Xưa bán hương thơm trọn dối gian. 42. Đời nay chết treo do nhân gì? Kiếp trước đem dây săn bẫy thú. 43. Quan, quả, cô độc do nhân gì? Xưa thường ganh ghét hiềm mắng người. 44. Sét đánh lửa thiêu do nhân gì? Cân non, già, thiếu lòng gian xảo. 45. Rắn cắn cọp ăn do nhân gì? Kiếp trước gây oan tạo đối đầu. Muôn việc mình làm lại mình chịu Thọ khổ địa ngục oán trách ai? Đừng nói nhân qủa người không thấy. Xa trả con cháu, gần trả mình. 46. Chỉ nhìn trước mắt người hưởng phước. Sẽ tin bố thí với trì trai. Kiếp trước tu nhân nay hưởng quả. Đời nầy tu tích để về sau. Nếu ai hủy báng kinh Nhân Quả Kiếp sau đọa lạc mất thân người. Kẻ nào thọ trì kinh Nhân Quả. Chư Phật, Bồ Tát đều chứng minh. Kẻ nào biên chép kinh Nhân Quả, Truyền đời tu học đạo nhà hưng. Ai mà mang đội kinh Nhân Quả, Tai hung hoạnh họa chẳng vào thân. Nếu người giản nói kinh nhân qủa Đời đời kiếp kiếp được thông minh Kẻ nào đề xướng kinh Nhân Quả Đời sau người thấy sinh cung kính. Người nào ấn tống kinh Nhân Quả. Kiếp sau sẽ được thân Đế Vương. Theo Kinh Nhân Quả hỏi đời trước. Chính sự thọ hưởng của đời nay. Theo Kinh Nhân Quả hỏi đời sau. Chính sự gây nhân của kiếp này, Nếu như nhân quả không cảm ứng, Do đâu Mục Liên cứu được mẹ? Người nào tin sâu kinh Nhân Quả. Đồng sinh Tây phương cõi Cực Lạc. Nhân quả ba đời nói không hết. Thiên long chẳng bỏ ý người lành. Nên ngôi Tam Bảo ruộng phước lớn, Nhân tu tuy một, hưởng muôn ngàn. Gởi kho bền chắc không hư mất, 5 Nhiều đời thọ dụng phước vô cùng. Muốn biết nhân đời trước, Xem sự hưởng đời nay, Muốn biết quả đời sau, Xem việc làm kiếp này. Chú thích 1 Nhà dưỡng Lão, cô nhi. 2 Thuở xưa từ Ấn Độ, cho đến Trung Hoa, những nhà nghèo sinh con nhiều nuôi không tham nên dìm cho chết bớt con gái lúc mới sinh ra. 3 Ngồi dưới đất xem kinh, nên để kinh trên một cái bệ, khinh mạn cũng là nhân của tướng lùn bé. Lễ Phật, khiêm hạ là nhân của tướng cao hơn. 4 Ăn mặn rồi muốn tụng kinh, phải súc miệng rửa tay, rửa miệng sạch, và tụng chú như sau. Tất được thanh tịnh không tội lỗi Tịnh tam nghiệp chân ngôn Um Soa Pha Va Suýt Đà, sạt và đạt ma, soa phạ va suýt đa hàm 7 biến Aum! Syabhava sudaha, sarva drama svabhava suddhà hàma. 5 Gởi kho đây không phải đốt giấy tiền vàng bạc gởi vào kho, mà ý nói tiền của thế gian không bền, khi chết rồi phải bỏ lại tất cả. Chỉ có tu phước làm lành ăn chay, tụng kinh, tham thiền, niệm Phật, là kho.
Kinh Kim Cang Giảng giải Đoạn 3 Đại Thừa Chánh Tông ÂM ĐẠI THỪA CHÁNH TÔNG Phật cáo Tu-bồ-đề - Chư Bồ-tát ma-ha-tát ưng như thị hàng phục kỳ tâm. Sở hữu nhất thiết chúng sanh chi loại, nhược noãn sanh, nhược thai sanh, nhược thấp sanh, nhược hóa sanh, nhược hữu sắc, nhược vô sắc, nhược hữu tưởng, nhược vô tưởng, nhược phi hữu tưởng phi vô tưởng, ngã giai linh nhập Vô dư Niết-bàn nhi diệt độ chi. Như thị diệt độ vô lượng, vô số, vô biên chúng sanh, thực vô chúng sanh đắc diệt độ giả. Hà dĩ cố? Tu-bồ-đề, nhược Bồ-tát hữu ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng tức phi Bồ-tát. DỊCH CHÁNH TÔNG CỦA ĐẠI THỪA Phật bảo Tu-bồ-đề - Các vị Bồ-tát lớn nên như thế mà hàng phục tâm kia. Có tất cả các loài chúng sanh hoặc loài sanh bằng trứng, hoặc loài sanh bằng thai, hoặc sanh chỗ ẩm ướt, hoặc hóa sanh, hoặc có hình sắc, hoặc không hình sắc, hoặc có tưởng, hoặc không tưởng, hoặc chẳng có tưởng chẳng không tưởng, ta đều khiến vào Vô dư Niết-bàn mà được diệt độ đó. Diệt độ như thế vô lượng, vô số, vô biên chúng sanh mà thật không có chúng sanh được diệt độ. Vì cớ sao? Này Tu-bồ-đề, nếu Bồ-tát còn có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả tức chẳng phải là Bồ-tát. GIẢNG “Chín loài chúng sanh” chỉ trùm tất cả chúng sanh. Niết-bàn nghĩa là vô sanh. Niết-bàn có Hữu dư y Niết-bàn và Vô dư y Niết-bàn. Những vị chứng quả A-la-hán, được vô sanh nhưng còn thân hình tướng thì gọi là Hữu dư Niết-bàn; được Niết-bàn sau khi xả thân nghĩa là được vô sanh sau khi không còn thân tướng thì gọi là Vô dư Niết-bàn. Bốn tướng Tướng ngã thấy có mình thật. Tướng nhân thấy có người thật. Tướng chúng sanh thấy tất cả loài có thật. Tướng thọ giả thấy có mạng sống tiếp nối trong một thời gian. Đây là đến phần Phật trả lời hai câu hỏi trước của ngài Tu-bồ-đề. Câu hỏi đầu là an trụ tâm, câu hỏi thứ hai là hàng phục tâm, nhưng khi trả lời đức Phật đổi lại trả lời câu hỏi hàng phục tâm trước và câu hỏi an trụ tâm sau. Trong đoạn này Phật dạy cách hàng phục tâm tức chỉ phương pháp tu hành. Đức Phật dạy Đối với tất cả loài chúng sanh ta đều đưa họ vào chỗ Niết-bàn không còn hình tướng để họ được diệt độ. Diệt độ như thế không biết bao nhiêu chúng sanh mà thật không có một chúng sanh nào được diệt độ. Đó là hàng phục được tâm, quí vị làm được điều đó không? Phật lại bảo tiếp Tại sao thế? - Vì nếu Bồ-tát còn một tướng ngã hay tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả thì không phải là Bồ-tát. Phật trả lời khó hiểu quá, thấy như lạc đề. Đây là chỗ chánh yếu nhưng vừa mở đầu chúng ta thấy ngỡ ngàng, chúng ta mong Phật trả lời làm sao hàng phục tâm mà đức Phật trả lời như thế này thì làm sao hàng phục tâm được! Tôi không nói loài sanh bằng trứng, những loài sanh chỗ ẩm ướt, những loài sanh do biến hóa, những loài có sắc, không sắc mà chỉ nói những loài thai sanh và trong loài sanh bằng thai, tôi hạn chế trong loài người thôi. Chừng nào chúng ta độ tất cả loài người vào Vô dư Niết-bàn mà không thấy họ được diệt độ, chừng đó chúng ta mới hàng phục được tâm. Vậy chừng nào chúng ta làm được việc đó? Nếu như không làm được việc đó thì hàng phục tâm không được. Tại sao hỏi hàng phục tâm mà Phật dạy độ chúng sanh ở ngoài? Đó là điều khó, từ xưa đến giờ chính khi chúng tôi học, đến chỗ này chúng tôi cũng lắc đầu, điều Phật dạy rất khó áp dụng trong việc tu hành. Nếu chúng ta hiểu theo lời theo chữ thì sẽ có hai điểm không thể thực hiện được. Điểm thứ nhất là chúng ta thấy Phật chưa thành Phật. Tại sao? Vì khi đức Phật thành Phật, thử hỏi tất cả người - chỉ nói là người thôi - ở Ấn Độ, Phật đã độ được vào Vô dư Niết-bàn hết chưa? Chúng ta thấy rõ rằng lúc đó còn ngoại đạo rất nhiều, Ngài chỉ độ một số mấy ngàn vị thôi chớ đâu phải tất cả, vậy tại sao Ngài được thành Phật? Nếu hàng phục tâm chưa được thì làm sao thành Phật? Điểm thứ hai là Phật dạy chúng ta làm một việc mà không bao giờ chúng ta làm nổi. Thử hỏi tất cả quí vị cũng như chúng tôi, ai đã được Vô dư Niết-bàn? Thế mà chúng ta phải đưa tất cả chúng sanh vào Vô dư Niết-bàn, chừng đó mình mới hàng phục được tâm. Vậy đến bao giờ chúng ta mới làm được việc đó? Chỗ mình chưa đạt tới mà Phật bảo mình độ người đạt được chỗ đó, làm sao chúng ta làm được? Cũng như chúng ta còn dốt mà bảo dạy tất cả người đậu tiến sĩ hết, chừng đó mới được làm quan thì thật là vô lý. Thế nên nếu học kinh Phật, nhất là kinh Đại thừa, mà hiểu theo chữ, theo lời thì không làm sao giải thích được. Điểm thứ nhất ta thấy mâu thuẫn với Phật, điểm thứ hai mâu thuẫn với chúng ta, như thế làm sao có thể áp dụng trong việc tu hành? Nhưng đến sau này khi tu thiền và đọc sách thiền rồi, chúng tôi mới giật mình, không ngờ mình không hiểu lời Phật nói. Kinh nói trong chúng ta có đủ cả Thập pháp giới, đó là Tứ thánh và Lục phàm. Quí vị thấy có khi chúng ta phát lòng từ bi giống như Phật, như Bồ-tát, có khi chúng ta xấu xa như con heo, con bò, có khi chúng ta hung dữ như con cọp, con sói. Trong chúng ta có đủ trăm thứ nghĩ, tốt xấu lẫn lộn. Thế nên mỗi một dấy niệm về người thì đó là một chúng sanh thai sanh, một dấy niệm về chim chóc thì đó là chúng sanh noãn sanh, một dấy niệm về con bướm, con ong thì đó là hóa sanh, một dấy niệm về con đom đóm đó là thấp sanh, nghĩ đến hư không đó là chúng sanh vô sắc, dấy niệm về con người có tưởng, đó là chúng sanh có tưởng, dấy niệm buông hết vọng tưởng, buông hết cả những tâm tưởng đó là chúng sanh vô tưởng… dấy niệm là sanh. Tại sao? Bởi vì khi lặng thì không có niệm, mà niệm dấy lên là do duyên với cảnh hoặc người, hoặc vật. Vọng thức bên trong duyên theo bóng dáng của vọng trần, cả hai phối hợp nhau mà sanh nên gọi là chúng sanh. Mỗi một niệm dấy lên như vậy là một chúng sanh. Những chúng sanh do niệm vừa dấy lên đó chúng ta liền độ vào Vô dư Niết-bàn. Làm sao độ? Chúng sanh đó dấy lên, ta biết chúng sanh này giả tức nhiên nó lặng xuống chỗ không sanh và khi nó lặng xuống không còn thấy tăm dạng nên gọi là Vô dư Niết-bàn. Như thế chúng ta thấy đức Phật độ hết chúng sanh, Ngài hàng phục được tâm, Ngài thành Phật. Như thế mới có lý, mới đúng sự thật. Cũng thế nếu những vọng tưởng của chúng ta đang điên cuồng chạy ngược, chạy xuôi theo có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng… theo tất cả hình tướng bên ngoài, bây giờ chúng ta đưa nó vào Vô dư Niết-bàn, vào chỗ lặng lẽ không sanh diệt, tâm chúng ta không còn loạn nữa, đó là chúng ta hàng phục được tâm. Hiểu như vậy chúng ta mới tu được. Như thế chúng ta mới thấy rõ đức Phật thành Phật trong khi tất cả chúng sanh vẫn còn. Ngài hàng phục được tâm của Ngài nên mới được đến chỗ Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Như bây giờ chúng ta vừa phát tâm tu thì chúng ta cũng hàng phục như vậy, lần lần tâm an định chúng ta mới tiến bộ được. Nếu cứ lo độ chúng sanh ở ngoài trong khi chính mình chưa độ được mình thì độ được ai? Hiểu như vậy rồi chúng ta thấy kinh Phật rất cao siêu, lời lẽ diễn tả những hình ảnh mà chúng ta không hiểu là những hình ảnh đó qui về mình rồi chúng ta cứ tưởng là việc bên ngoài. Khi chúng ta tưởng như thế chúng ta sẽ thối chí không biết làm sao thực hành. Thế nên ngày xưa chính tôi đã từng nói rằng Kinh Đại thừa chắc chỉ để trên gác thờ, không thể áp dụng trong việc tu hành, nhưng nay chúng ta hiểu rõ rồi, mới thấy chính đoạn này trả lời rất sát câu hỏi của ngài Tu-bồ-đề. Ngài Tu-bồ-đề hỏi làm sao hàng phục được tâm, Phật dạy Một niệm dấy lên là một chúng sanh, đưa những niệm đó vào chỗ vô sanh là hàng phục tâm. Đây là Tự tánh chúng sanh thệ nguyện độ. Rõ ràng là Phật trả lời việc hàng phục tâm. Nếu nói độ tất cả chúng sanh thì ta thấy như là người hỏi việc bên trong mà Phật trả lời việc bên ngoài, không dính dáng gì với nhau. Nhưng ở đây, chúng ta đã thấy rõ ý nghĩa độ tất cả chúng sanh, đó là đưa tất cả niệm vào chỗ không còn sanh diệt. Khi nào thực hành quí vị mới thấy rõ. Một niệm dấy lên nghĩ về người, chúng ta liền nói niệm đó giả dối không thật, không theo. Khi biết nó giả, ta không theo thì nó lặng xuống, lặng xuống chỗ không còn thấy tướng mạo, đó là Vô dư Niết-bàn. Không sanh là Niết-bàn, không còn tướng mạo là vô dư. Bao nhiêu niệm đều đưa vào đó nên nói độ tất cả chúng sanh mà không thấy có chúng sanh nào được diệt độ, nghĩa là đưa tất cả vào đó hết mà không còn thấy có một người nào hay một niệm nào thật. Quí vị thấy thật là khó, khó ngay ở buổi đầu. Thế nên Phật nói tiếp Vì cớ sao? Này Tu-bồ-đề! Nếu Bồ-tát còn tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, thì không phải là Bồ-tát. Tại sao vậy? - Bởi vì một niệm dấy lên tức là có chấp ngã trong đó. Quí vị nhớ từ cái chấp ngã của Đại thừa đi lần đến chấp ngã sâu kín vi tế của Thiền tông. Hai cái tương ưng nhau. Chấp ngã của Đại thừa là chấp thân làm ngã và chấp tâm làm ngã. Từ cái chấp thân, tâm làm ngã đến niệm dấy lên chấp niệm đó là mình, đó cũng là chấp ngã. Niệm dấy lên cho là mình nghĩ, đó là chấp ngã. Tại sao? Dấy niệm là suy nghĩ về người, suy nghĩ về cảnh, thử hỏi ai nghĩ, ai nghĩ về người, ai nghĩ về cảnh? Thô thì chấp thân này, tế thì chấp một niệm, vì vậy còn thấy một niệm thật là còn có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả; nếu đưa hết những niệm vào Vô dư Niết-bàn rồi thì đâu còn tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả. Người làm được như vậy, đức Phật nói Đó là Bồ-tát độ chúng sanh. Quí vị thấy mỗi ngày chúng ta ngồi ở tảng đá chơi, hoặc ngồi ở trước hành lang nhà, hoặc ngồi trong vườn, nếu chúng ta cứ lo độ chúng sanh như vậy, nghĩa là mỗi chúng sanh dấy lên chúng ta đưa vào Vô dư Niết-bàn, đó cũng là Bồ-tát độ chúng sanh rồi. Tại sao gọi là Bồ-tát? Vì Bồ-tát là một chúng Hữu tình giác ngộ và đem sở giác của mình giáo hóa kẻ khác, tức là tự giác và giác tha. Niệm dấy lên chúng ta biết nó là hư giả, đó là giác; giác rồi đưa nó vào chỗ vô sanh, đó là độ chúng sanh. Như vậy quí vị thấy giờ nào mà không độ chúng sanh? Chúng ta độ chúng sanh đó thì sẽ đi đến chỗ an trụ Niết-bàn. Tóm lại đức Phật chủ yếu dạy chúng ta đối với tất cả niệm khởi về người về vật muôn ngàn hình tướng đều cho lặng xuống hết, lặng vào chỗ không còn sanh diệt, khi đó là hàng phục tâm. Tâm chúng ta không còn loạn động nữa, mà hết loạn động tức là chúng ta hàng phục được tâm thuần thục. Như thế câu trả lời rất là xác đáng. Và như vậy mới hết tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả. Hiện giờ có nhiều người không hiểu, cho thân này là ngã nên bảo “thôi tôi xả thân, tôi không nghĩ gì đến tôi hết, tôi bố thí tất cả thức ăn, thức mặc, cái gì tôi cũng không kể”, nhưng niệm của họ vẫn còn khởi thì cái xả đó vẫn chưa sạch. Tỉ dụ cứ nghĩ ta là người bố thí, ta là người nhẫn nhục tức là còn ngã chớ gì? Cho nên còn một niệm là còn ngã, cái ngã tế nhị như vậy. Thành ra có nhiều người làm việc coi như xả ngã mà chính là nuôi cái ngã thêm to, đó là cái ngã vọng tưởng ở tâm. Thế nên khi hiểu rồi quí vị mới thấy ở đây đức Phật bảo Độ tất cả chúng sanh mà không thấy có một chúng sanh nào được diệt độ. Tại sao? - Vì nếu Bồ-tát còn bốn tướng đó không phải là Bồ-tát. Còn bốn tướng là còn dấy niệm thấy có mình tức có ngã, mà có ngã tức là có nhân, có chúng sanh, có thọ giả… Có dấy niệm mới chấp, mới nghĩ ta phải người quấy, mới thấy ta hay người dở nếu không dấy niệm thì chấp cái gì? Đó là chỗ cứu kính trong việc tu hành. Hiểu được rồi chúng ta thấy rõ ràng vừa bước vào đoạn thứ nhất là đã biết được phương pháp tu hành. Mục Lục
KINH NHÂN QUẢ BA ỜI Việt Dịch HT Thích Thiền Tâm Một hôm, Tôn giả A Nan Đà, ở trên hội Linh Sơn cùng với một ngàn hai trăm năm mươi đại Tỳ Kheo câu hội. Khi ấy A Nan Đà Tôn giả, chắp tay đảnh lễ Phật, nhiễu quanh ba vòng, rồi quỳ xuống thưa thỉnh đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn rằng – Bạch Thế Tôn! Đến thời mạt pháp, tất cả chúng sinh ở cõi Nam Diêm Phù Đề, nhiều kẻ sinh niệm chẳng lành, không kính Tam Bảo, không trọng cha mẹ, không có tam cang. Năm giềng rối loạn, nghèo khó, thấp hèn, sáu căn chẳng đủ, trọn ngày sát sinh hại mạng cho đến nghèo giàu sang hèn không đồng nhau. Do nhân duyên qủa báo gì khiến nên như thế? Cúi xin đức Thế Tôn từ bi, vì chúng con giải thích mọi sự việc. Phật bảo A Nan cùng các đại đệ tử ! Lành thay ! Lành thay ! Các ông hãy lắng nghe! Ta sẽ vì các ông mà giải thích rành rẽ”. Tất cả nam nữ ở thế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nhân duyên từ đời trước mà cảm qủa báo. Cho nên tất cả chúng sinh, trước phải hiếu kính cha mẹ, kế đó phải tin trọng ngôi Tam Bảo, thứ ba nên bỏ giới sát mà phóng sinh, và thứ tư cần ăn chay bố thí mới có thể gieo giống ruộng phước về sau. Phật liền nói bài kệ nhân qủa rằng Giàu sang đều bởi mạng Đời trước có tu nhân Ai thọ trì kinh nầy, Đời đời hưởng phước lộc. Thiện nam, tín nữ nghe ta nói Suy nhớ kinh Nhân Qủa ba đời Nhân qủa ba đời việc chẳng nhỏ, Phật nói lời Phật chớ chê khinh. 1. Đời nay làm quan do nhân gì? Kiếp trước vàng ròng thếp tượng Phật Đời nay hưởng phước bởi nhân xưa Đai vàng, áo tía, cầu nơi Phật. Vàng trang nghiêm Phật, trang nghiêm mình. Làm đẹp Như Lai, đẹp từ thân. Đừng bảo làm quan là chuyện dễ, Không tu phước ấy đến từ đâu? 2. Cưỡi ngựa, ngồi kiệu do nhân gì? Kiếp trước làm cầu, bồi đắp lộ. 3. Do nhân duyên gì mặc gấm vóc? Đời trước thí áo giúp Tăng Ni. 4. Có ăn, có mặc do nhân gì? Xưa giúp kẻ nghèo cho ăn uống. 5. Ăn mặc thiếu thốn bởi nhân chi? Kiếp trước một nửa không xả thí. 6. Lầu cao nhà lớn do nhân gì? Xưa lên chùa am cúng thí gạo. 7. Phước lộc đầy đủ cho nhân gì? Xưa lập chùa am cất nhà mát 1 8. Tướng mạo xinh đẹp do nhân gì? Đời trước hoa tươi cúng dường Phật. 9. Thông minh trí tuệ do nhân gì? Kiếp trước ăn chay, thường niệm Phật. 10. Người thấy vui mừng do nhân gì? Xưa kết duyên lành cùng đại chúng. 11. Chồng vợ bền lâu do nhân gì? Đời trước tràng phan nghiêm cúng Phật. 12. Cha mẹ song toàn do nhân gì? Đời trước kính trọng người cô độc. 13. Không cha mất mẹ do nhân gì? Kiếp trước là người đánh bẫy chim. 14. Con cháu đông nhiều do nhân gì? Đời trước mở lồng thả chim thú. 15. Nuôi con không được do nhân gì? Xưa sinh con gái dìm cho chết? 2 16. Đời nay không con do nhân gì? Kiếp trước bẻ gãy hại trăm hoa. 17. Đời nay sống lâu do nhân gì? Kiếp trước mua vật phóng sinh nhiều. 18. Đời nay mạng yểu do nhân gì? Kiếp trước xẻ thịt giết chúng sinh. 19. Đời nay không vợ do nhân gì? Kiếp trước tham mưu gian vợ người. 20. Đời nay ở góa do nhân gì? Kiếp trước buông lung khinh rẻ chồng. 21. Làm thân tôi đòi do nhân gì? Kiếp trước quên ơn cùng phụ nghĩa. 22. Đời nay mắt sáng do nhân gì? Kiếp trước cúng dầu đốt đèn Phật. 23. Đời nay đui mù do nhân gì? Kiếp trước chỉ đường chẳng phân minh. 24. Môi miệng sứt thiếu do nhân gì? Kiếp trước thổi tắt đèn cúng Phật. 25. Đời nay câm điếc do nhân gì? Xưa từng ác khẩu mắng cha mẹ. 26. Đời nay lưng gù cho nhân gì? Kiếp trước chê cười người lễ Phật. 27. Tay bị cong quẹo do nhân gì? Đời trước đều là người tạo nghiệp. 28. Chân bị co rút do nhân gì? Kiếp trước ngăn đường đánh cướp người. 29. Làm thân trâu ngựa do nhân gì? Xưa thiếu nợ người không chịu trả. 30. Đọa làm heo chó do nhân gì? Kiếp trước lừa gạt phỉnh hại người. 31. Đời nay nhiều bệnh do nhân gì? Xưa đem rượu thịt bày cúng Phật. 32. Đời nay không bệnh do nhân gì? Xưa thí thuốc men cứu bệnh nhân. 33. Hằng bị lao tù do nhân gì? Kiếp trước làm ác chẳng nhượng người. 34. Đời nay chết đói do nhân gì? Kiếp trước thường lấp hang rắn chuột 35. Bị thuốc độc chết do nhân gì? Kiếp trước đăng lưới giết hại cá. 36. Nổi trôi cơ khổ do nhân gì? Ác tâm lấn hiếp mưu hại người. 37. Đời nay lùn bé do nhân gì? Kiếp trước xem kinh để dưới đất. 3 38. Nay thường thổ huyết do nhân gì? Xưa ăn thịt rồi đi tụng kinh. 4 39. Đời nay ngu điếc do nhân gì? Kiếp trước tụng kinh chẳng lắng nghe. 40. Ghẻ lác phong điên do nhân gì? Xông hơi thịt cá trước bàn Phật. 41. Thân có mùi hôi do nhân gì? Xưa bán hương thơm trọn dối gian. 42. Đời nay chết treo do nhân gì? Kiếp trước đem dây săn bẫy thú. 43. Quan, qủa, cô độc do nhân gì? Xưa thường ganh ghét hiềm mắng người. 44. Sét đánh lửa thiêu do nhân gì? Cân non, già, thiếu lòng gian xảo. 45. Rắn cắn cọp ăn do nhân gì? Kiếp trước gây oan tạo đối đầu. Muôn việc mình làm lại mình chịu Thọ khổ địa ngục oán trách ai? Đừng nói nhân qủa người không thấy. Xa trả con cháu, gần trả mình. 46. Chỉ nhìn trước mắt người hưởng phước. Sẽ tin bố thí với trì trai. Kiếp trước tu nhân nay hưởng qủa. Đời nầy tu tích để về sau. Nếu ai hủy báng kinh Nhân Qủa Kiếp sau đọa lạc mất thân người. Kẻ nào thọ trì kinh Nhân Qủa. Chư Phật, Bồ Tát đều chứng minh. Kẻ nào biên chép kinh Nhân Qủa, Truyền đời tu học đạo nhà hưng. Ai mà mang đội kinh Nhân Qủa, Tai hung hoạnh họa chẳng vào thân. Nếu người giản nói kinh nhân qủa Đời đời kiếp kiếp được thông minh Kẻ nào đề xướng kinh Nhân Qủa Đời sau người thấy sinh cung kính. Người nào ấn tống kinh Nhân Qủa. Kiếp sau sẽ được thân Đế Vương. Theo Kinh Nhân Qủa hỏi đời trước. Chính sự thọ hưởng của đời nay. Theo Kinh Nhân Qủa hỏi đời sau. Chính sự gây nhân của kiếp này, Nếu như nhân qủa không cảm ứng, Do đâu Mục Liên cứu được mẹ? Người nào tin sâu kinh Nhân Qủa. Đồng sinh Tây phương cõi Cực Lạc. Nhân qủa ba đời nói không hết. Thiên long chẳng bỏ ý người lành. Nên ngôi Tam Bảo ruộng phước lớn, Nhân tu tuy một, hưởng muôn ngàn. Gởi kho bền chắc không hư mất, 5 Nhiều đời thọ dụng phước vô cùng. Muốn biết nhân đời trước, Xem sự hưởng đời nay, Muốn biết qủa đời sau, Xem việc làm kiếp này. 1 Nhà dưỡng Lão, cô nhi 2 Thuở xưa từ Ấn Độ, cho đến Trung Hoa, những nhà nghèo sinh con nhiều nuôi không tham nên dìm cho chết bớt con gái lúc mới sinh ra. 3 Ngồi dưới đất xem kinh, nên để kinh trên một cái bệ, khinh mạn cũng là nhân của tướng lùn bé. Lễ Phật, khiêm hạ là nhân của tướng cao hơn. 4 Ăn mặn rồi muốn tụng kinh, phải súc miệng rửa tay, rửa miệng sạch, và tụng chú như sau. Tất được thanh tịnh không tội lỗi Tịnh tam nghiệp chân ngôn Um Soa Pha Va Suýt Đà, sạt và đạt ma, soa phạ va suýt đa hàm 7 biến Aum! Syabhava sudaha, sarva drama svabhava suddhà hàma. 5 Gởi kho đây không phải đốt giấy tiền vàng bạc gởi vào kho, mà ý nói tiền của thế gian không bền, khi chết rồi phải bỏ lại tất cả. Chỉ có tu phước làm lành ăn chay, tụng kinh, tham thiền, niệm Phật, là kho. Download về máy PDF KINH NHÂN QUẢ BA ĐỜI TRỌN BỘ
tung kinh nhan qua 3 doi